KINH KÊ GÀ CHỌI – KINH KÊ DIỄN NGHĨA

KINH KÊ DIỄN NGHĨA

Đối với hầu hết sư kê thì không còn xa lạ gì với 2 từ “Kinh Kê”. Đây là một cuốn sách nói về cách thức chọn, nuôi, lẫn huấn luyện, cáp độ đá gà trực tiếp như thế nào. Quyển sách được truyền qua nhiều thế hệ say mê gà chọi. Và cho đến tận nay, nhiều người vẫn còn tham khảo. Tuy nhiên sách sẽ có nhiều đoạn khó hiểu. Chính vì thế mà năm 1902 ông Nguyễn Phụng Lãm đã cho ra đời cuốn Kinh Kê diễn nghĩa. Cùng tìm hiểu quyển sách Kinh Kê gà chọi – Kinh Kê diễn nghĩa này.

Tìm hiểu về Kinh Kê diễn nghĩa

Đây là một quyển sách đã phiên dịch nội dung của Kinh Kê từ văn phong cổ sang thể thơ. Nhờ vậy mà người đọc có thể dễ dàng ghi nhớ. Ngày trước đây là những loại sách quý, ít hoặc hiếm có người chia sẻ. Đa phần đều lo sợ học rồi hơn hẳn mình. Nhưng nay khoa học phát triển. Chỉ cần tìm kiếm trên Google thì hầu như đều có đầy đủ thông tin. Chính vì thế mà kiến thức này được chia sẻ ngày một rộng rãi hơn.

Tìm hiểu về Kinh Kê diễn nghĩa
Tìm hiểu về Kinh Kê diễn nghĩa

Nội dung Kinh Kê diễn nghĩa

Sách có nội dung khá dài, được chia làm nhiều kỳ để đăng trên báo. Nay tổng hợp lại toàn bộ để anh em tiện tham khảo.

Lời tựa

Người sanh ra dưới thế này ai lại chẳng vương mang lấy tục tình, ai lại chẳng có tình dục riêng biết sao mà tránh cho khỏi; nhứt là người trong Nam-Kỳ ta đây, hay bắt chước người Tàu mang truyền nhiễm bịnh in nhau những là: tửu, khí, tài, sắc cùng đấu kê, đổ bác; theo như sách Trung-dung cùng là lục-hạp. Ấy vậy mà tự thuở nay các điệu vô căn kia còn có sách vở, thơ, phú, ca, từ mà bao biện, chỉ chỗ phải không, phân điều hơn thiệt cho thế sự biết duy còn một cuộc đấu kê, chưa ai phân dễ khó để cho thiên hạ tường tận, đặng mà tránh chỗ nên hư. Vả ta nay tuổi dư tám chục, sự thế cũng nhàm; nghĩ lại lối thiếu niên cũng đã mang lấy bịnh ham chọi gà, tỉ thí không thấy nhằm, công phu cũng không thấy hiệu, om bóp cho lắm thời cũng có khi ăn khi thua, khi thắng khi bại, vả lại trong trường chinh chiến ai cũng vị tất mình hơn, song mãn cuộc rồi cũng đổ cho loài chim chuột, thành bại vinh hư ít ai xét lỗi bởi mình. Thương hại cho con gà liều thân đền nợ chủ mà còn không khỏi tiếng khen chê, hễ ăn thì vui mừng hớn hở, mà ai thua lại hờn giận buồn rầu; xét ra đều là thương vật hại nhơn rất nên vô ích. Nhơn rày nhàn hạ coi bộ sách gà, mới biết điệu nuôi gà và cáp gà cũng là rất khó, đừng ai nói nghề chơi lắm công phu thì tường mà lầm, ai muốn tinh phải coi sách gà này mới biết. Chọn lựa cho nhằm theo sách gà này; tôi dám chắc một trăm độ không sai một độ; song nó cũng khó không khác chi sách coi ngày; đã có sanh khắc xung kị, mà còn văn võ chưa minh nếu ai không tinh thì hay hơn là đừng chơi, hơn là đem tiền ra mà phó cho cuộc rủi may không ích. Tôi xin chép lại sách đã dịch nôm ra đây cho các quí nhơn nhàn lãm.

KINH KÊ DIỄN NGHĨA
KINH KÊ DIỄN NGHĨA

Kỳ 1, số 30, phát hành ngày 20-3-1902

Trời xuân nương ngọn đèn hoa,

Thừa nhân xem thấy sách gà Phạm Công,

Dạy răn chẳng sót mảy lông,

Từ đây mới hẳn phép trong rất mầu.

Trước phân văn võ làm đầu,

Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ hầu phân minh.

Ngũ thể là ứng ngũ hành,

Tương sanh, tương khắc cho đành can chi.

Hình công, hình phụng, hình quy,

Cần trên cần dưới coi thì cho thông.

Lại tường từ cái thép lông,

Hạt mao trước võ phẩm đồng phước kê.

Gặp gà võ thử nên ghê,

Tượng mao viên phát ai hề dám đương.

Bất câu ô, xám, ó, vàng.

Một mình năm sắc rõ ràng gồm văn.

Lông đuôi mà có quầng trăng,

Mã dài chí gối thiệt là tước linh.

Cánh lông trổ chín lưu tinh,

Hai bên mười tám tài tình xiết bao.

Thuần văn thuần võ làm sao,

Văn pha võ lộn đường nào về cho ?

Mã kim nhỏ nhẻ không to,

Lông ngời cho ướt thiệt đồ thuần văn.

Lá tre to trọi hai phần,

Sắc không khô ướt nó rằng văn pha.

Thép lông thuần võ kể ra.

Màu khô mã lại ấy là võ tinh.

Lại mã dài ướt hoà mình,

Võ pha là thế phải nhìn mà phân.

Sắc lông bày tỏ ân cần,

Lỡ văn lỡ võ sao rằng lỡ pha.

Mồng co, mồng lái văn hòa,

Mồng chóc, mồng trập danh là võ quan,

Mồng thòng, mồng lỗ võ quan

Mồng khe, mồng trích rõ ràng văn pha.

Ðầu mình đã tỏ gần xa,

Sau này ta sẽ bảo mà bộ chơn.

Sao rằng văn giáp danh xưng,

Sao rằng võ giáp rằng thuần rằng pha ?

Bất câu xanh xám, trắng ngà,

Ðường đất cho nhỏ, vảy mà cho trơn.

Ngón dài thắt nhỏ thời hơn,

Cựa kim đóng thấp ấy chơn văn thuần.

Khai mương vảy đóng khô vi,

Chơn như gà chết võ thuần chẳng sai.

Còn như đại giáp bài khai,

Ðường đất sợi chỉ thiệt tài văn pha.

Chơn dầu vảy cọp tỏ ra,

Ðường đất thô lớn ấy là võ xen.

Cựa mà có đóng trong huyền,

Nhọn cũng như buá võ tuyền vậy vay.

Cựa đao hoặc lớn mà ngay,

Thấy thời cho biết nó rày võ pha.

Văn thuần ăn võ thuần mà,

Võ thuần ăn đặng văn pha rất mầu.

Văn pha với võ địch nhau,

Thắng vì nhờ vảy ai hầu hơn ai.

Vảy lông trái thế một hai,

Kém vảy bổn mạng dễ nài đứng lâu.

Phải tường bổn mạng ở đâu,

Cứ vảy ngón giữa kể hầu chẳng sai.

Hai mươi hai vảy sấp ngoài,

Mười bảy mười tám thường tài thiếu chi.

Vảy độ cứ xuống mà suy,

Ðừng cho núng dập phải ghi vào lòng.

Hậu cước liên lộ song song,

Vảy thời trên cán cho thông một đường.

Ðừng cho nát nẩm loạn hàng,

Ðứng càng lâu nước, lại càng đá năng.

Vảy hậu một đàng thẳng băng,

No nê khỏi cựa mới rằng bền cho.

Dẫu mà khai hậu nhỏ to,

Phía bên vấn cán chẳng lo chút nào.

Phép vảy khôn xiết kể bao,

Thương người lầm lỗi phải trao tâm truyền.

Kỳ 2, số 31, phát hành ngày 27-3-1902

Cho tường là vảy tam truyền,

Cho tường là vảy chướng thiên chỗ nào.

Câu loan tình trạng làm sao,

Ngư lân, yến nguyệt tài cao thế gì,

Ba hàng rốt chậu vảy qui,

Hoành hoành chỉ địa ai thời dám đương.

Châu giáp, huyền giáp phải tường,

Châu hơn đã hẳn huyền nhường lại châu.

Nhựt thần vảy đóng ở đâu,

Ðóng mà ngang cựa để hầu phòng thương.

Lạc mai giáp đóng phi thường,

Hoặc bày dưới cựa hoặc tường lên trên.

Khai vương giữa chậu hoặc bên,

Chẳng sớm thời muộn chẳng quên đòn tài.

Hai hàng dầu cách dặm dài,

Nhứt cách nhứt chiếu quảng hoài phải kiêng.

Long ẩn mà có ẩn huyền,

Nước ba thời thấy đá phiên một đòn.

Cao nào ngón giữa ẩn son,

Qua khuya một chút chúng lòn chạy ngang.

Bạch giáp hoa hồng ai tày,

Ðá hầu một nước chơn rày như son.

Suất châu ba giáp sổ tròn,

Ai chịu cho nổi ba đòn Từ-cung.

Sát chậu một vấn bít bồng,

Ðá xen đá bại anh hùng phải kinh.

Bát chỉ nhơn tự gà danh,

Ðôi chơn nhựt nguyệt anh linh chẳng vừa.

Hổ đầu ngón giữa chẳng chừa,

Ðá sơ chẳng chết cũng ngơ ngẩn đầu.

Liên giáp vảy ấy thiếu đâu,

Ðóng mà ngang cựa ai nào dám trông.

Ðã phân phép giáp phép lông,

Lại dạy một phép cho thông lựa gà.

Ăn thua vì bởi nơi ta,

Gà hay thất cách ắt là phải thua,

Hiệp cách dầu mấy cũng mua,

Thất cách đem tới mà cho chẳng màng.

Chẳng lựa ô, tía, xám, vàng,

Mã nhỏ mà ướt lượng toan lượng tào.

Cổ cần đoạn một liên nhau,

Mỏ xuôi, mình phụng, mồng dâu, mình dài.

Hai vai cánh thiệt hai vai,

Vảy đóng cho mỏng chơn dày phân ba.

Ngón dài nhỏ thắt tằm nga,

Ðường đất như chỉ đóng sà cựa kim.

Cần tròn hay lận hay lanh,

Ðùi thời đùi ếch mắt thêm lõa tròng.

Cằm thời cho khít làm song,

Sâu lườn xương trọng sức trong như thần.

Cho hay là thể thuần văn,

Ðịch cùng võ thể mười phần toàn công.

Con nào đầu lớn khô lông,

Mình mà tròn tượng, chơn phòng phân hai.

Vảy mang ngón chẳng đặng dài,

Mồng chóc mã lại dưới hai cựa tròn,

Mắt thời lớn lõa ngoài khuôn,

Vảy thời to kịch hình dung võ toàn,

Ðá thời động địa kinh thiên,

Sánh cùng văn thể thủ thành đặng đâu.

Thuần văn thuần võ dạy đầu,

Văn pha võ lộn sau hầu biện phân.

Hỏi xin chữ dạ ân cần,

Từng chơi biện đặng, phải từng xét suy.

Dạy cho đủ trạng gà kỳ,

Thủ vĩ tương cận thấy thì phải kiêng.

Danh là gà thể triều thiên

Cổ trên cất đứng, đuôi liền cúc cung.

Hình như phụng võ phong trung,

Phép gà, cho gả anh hùng không hai.

Mồng rồng mà ngón lại dài,

Chơn dầu hèn xấu danh ai dám dồn.

Con nào gối chí hậu môn,

Hình như Lữ-Vọng câu buông Vị hà,

Một đời cho nhẫn đến già,

Mỗi trường mỗi cậy, tài mà đòn sau.

Gà tréo tay trái càng mầu,

Tài hay sanh sát gẫm âu khác thường.

Gà nào chơn đóng hai hàng,

Về tên ngang cựa đâm càng nên ghê.

Coi gà biến hoá nhiều bề,

Ðành rằng sanh khắc chớ hề mạng chi.

Tại mình coi chẳng hay suy,

Có thua rồi trách, trách thì dở hay.

Xin coi hiệp cách như vầy,

Bách chiến bách thắng phép nay đã bàn.

Sách xem phải nghĩ thời tường,

Hữu trung hình ngoại rõ ràng chẳng sai.

Người hiền coi mạo biết tài,

Vật hay nó cũng bày ngoài hình dung.

Giống gà rất đỗi anh hùng.

Cũng gồm năm đức cũng thông trăm tài.

Cổ liền, lườn thẳng lớn dài,

Vụ xương nặng đúc, ức hai bên dày.

Cổ cần càng vắn càng hay,

Khô chơn, thắt ngón cho gầy thời hơn.

Mình như bắp chuối chẳng nhường,

Vảy nước dưới cựa có tường hay chăng.

Vừa đóng tới cựa thời ăn,

Bằng không tới cựa nhọc nhằn công nuôi.

Phao câu liền chặt bền rồi,

Lừa mình, qui bối hẳn hòi cả gan.

Xám khô, ô ướt ai ngan,

Danh rằng khuyết thạch danh vang bằng truyền.

Gà trên gà dưới phải bàn,

Cổ trường mà dẹp băng ngang thượng hành.

Cổ môn mà vắn ngỡ ngàng,

Lội lặn ở dưới khó dằn lên trên.

Dạy cho các thứ hư nên,

Chơn mình tốt cả, sắt bền như cưa.

Ô ăn gà tiá có thừa,

Tiá ăn gà nhạn một giờ chẳng lâu.

Nhạn ăn gà xám rất mau,

Xám ăn vàng ó, vàng hầu ăn ô.

Bảo cho mấy thế ăn thua,

Nằm lòng gắng gỏi cũng mua mà dùng.

Thế ấy mấy ai đương cùng,

Xa quăng mới dám chẳng dung giao đầu.

KINH KÊ DIỄN NGHĨA- mào chỉ thiên
Mồng Chỉ Thiên

Kỳ 3, số 34, phát hành ngày 17-4-1902

Xa quăng cầu ít đặng đâu,

Nằm lòng cấn gối thấy hầu phải kiêng.

Gà quăng mười nước chẳng hiền,

Gác thế phải nhường cả trường đều kinh.

Kiêm cho gà trụ tài tình,

Người đá như sấm trong mình chẳng hư.

Nằm lòng trụ dập, trụ quanh,

Trụ dập các thế thế nào cũng hơn.

Chấm bợ ai thấy cũng nhờn,

Ðá mé ăn đặng bởi hơn ngang đòn.

Ðá ngang ăn đá sỏ non,

Mé rồi thêm bợ thì còn sỏ đâu,

Gà sỏ tài đâm rất mầu,

Ðâm ăn gà mé thế hầu chẳng sai.

Mé ăn gà sỏ hoài hoài,

Sỏ ăn hầu, vậy hầu ăn chong.

Thế nào giữ thế cho ròng.

Kẻo nó hay phản phép trong không thường.

Trước đà phân thế xa gần,

Lại truyền phép vảy vân vân tỏ bảy.

Trăm hay chẳng bằng độ may,

Tam tài hễ có thời may muôn phần.

Ba cái kề xuống ân cần,

Ðã ròng sỏ mé sút bằng cũng ăn.

Dặm chiếc ba cái răn răn,

Tam tài chánh hiệu mười phần chẳng ngoa.

Ðóng liền ba cái kề ba,

May đá lịch bại nữa mà hãy quăng.

Vảy ấy nó ăn không chừng,

Nó đá có cái thiệt chưn gãy cần,

Hồng sa phủ xuống sống chơn,

Khum khum vòng trái mười phần độ may.

Nguyệt luân vảy tợ hưng đoài,

Biết đá lịch bại thấy hoài chẳng không.

Ẩn tinh to nhỏ không cùng,

Nó ẩn dưới chậu danh đồng ẩn long.

Thỉ-dực vảy tên làm song,

Tài hay lịch bại, đá thì hay quăng.

Nguyệt phủ là vảy búa trăng,

Thân nội cái vảy dường chưng búa hình.

Hai hàng vảy đóng rành rành,

Hai bên đâu lại hiệu danh giao đầu.

Ác tinh vảy ấy cũng mầu,

Ðóng bằng hột tấm đá đâu cũng tàn.

Những trên mấy vảy nhứt ban,

Thấy tài lịch bại rõ ràng phải âu.

Thứ ba chỉ vảy nhiệm mầu,

Thần cơ tỏ hết trước sau phải bày.

Nghịch lân là vảy dư thay,

Hễ đá thì hại ai hầu chẳng kiêng.

Phân nhau nó đóng dị hình,

Bất luận hàng ngũ biết tình khúc lân.

Nhơn tự nội đóng răn răn,

Vảy ấy tài bợ dữ bằng thần lôi.

Huyền châm vảy tượng lắm ôi,

Cáp gà ta phải thông coi kẻo lầm.

Kỳ 4, số 35, phát hành ngày 24-4-1902

Vảy ấy nó ăn vảy son,

Son ăn vảy mực, mực còn ăn vương.

Vương ăn nhựt tự tài thường,

Nhựt ăn công tự cho thường mới hay.

Công ăn bán-nguyệt chẳng chầy,

Bán-nguyệt ngoại lộ ăn rày kim-qui.

Kim-qui ăn khẩu tự di,

Khẩu tự nó chẳng kể gì cúc kim.

Cúc kim là vảy đàn em,

Trời sanh phải chịu thua dèm vảy kia.

Vảy song nhiều vảy éo le,

Phải truyền cho biết mà đề ăn thua,

Vảy nhỏ thì ăn vảy to,

Vảy dưới trì hộ nó chấp vảy trên.

Vảy khô ăn ướt đã liền,

Tả biên ăn đặng, hữu biên là thường.

Dạy bày vảy độ cho tường,

Ðóng trên ngón nội một đường mọc lên.

Gà may vảy độ nảy liền,

Mấy vảy mấy độ ăn toàn chẳng chơi.

Nhơn tự hoặc chỉ ngoài này,

Hoặc năm ba vảy như ngòi tự nhơn.

Mấy chữ mấy độ là chừng,

Ăn đã hết độ thì đành đem ra.

Vảy may vảy rủi đâu là,

Hư có vảy ngoại thiệt là chẳng may.

Ngoài chỉ một hai vảy rày,

Ấy là vảy rủi kể bày chớ nuôi.

Vấn ngang trên cựa rủi rồi,

Tam tài dẫu có chẳng bồi đặng đâu.

Tam tài ngăn xuống thêm sầu,

Ngăn trên may độ gẫm âu hoài hoài.

Áp khẩu đường chém chẻ hai,

Ðóng trên các vảy sổ dài xuống nay.

Vảy độ nó chỉ ra rày,

Ấy là nó đó như dày cái kim.

Hoặc ngang hoặc chánh trung tiêm,

Nuôi thì tốn lúa, đá thêm thua tiền.

Ðã phân vảy rủi về viên,

Lại dạy lựa ngón móng biên, móng rồng.

Hình tằm, đầu trích độc hung,

Ngón nhỏ nhặt vảy ai hầu dám qua.

Lưỡng nghi vảy đá mé mà,

Ðóng đôi trên dưới thuận hoà đệ huynh.

Vảy chẻ nhơn tự quấn xen,

Vảy nguyên mà chẻ như hình tự nhân.

Nguyệt luân đóng vảy tròn hơn,

Ðóng trên đóng dưới cửa thần thinh không.

Nhơn tự cả thảy song song,

Nguyệt luân đôi cựa cũng dòng trúng đôi.

Móng ròng đá ẩn mà thôi,

Giao đầu nhập nôị cũng nòi đá ngang.

Nhập nội thế bảo cho tàng (tường)

Hàng vảy biên ngoại đổ tràn vô trong.

Tròng không thì dạng cũng không,

Thượng hạ có vảy giữa không có gì,

Vảy nghiên vảy phúc chia đi,

Ðá ăn người thấy cũng vì bộ chơn.

Vảy phúc rạch nhứt rành rành,

Vảy cái nó đóng như hình phát biên.

Kỳ 5, số 36, phát hành ngày 1-5-1902

Vảy chưn một sắc vẹn tuyền,

Dáng trổ một vảy sắc liền khác đi.

Sát nhơn chánh hiệu phải ghi,

Hai bên đều có phải vì phải kiêng.

Hai chưn vảy cúc đôi bên,

Hiệu là Song-cúc đá liên đá chồng.

Dưới cựa ba vảy song song,

Lại dặm một vảy nằm cùng một bên.

Nó là Tứ-thánh thiệt tên,

Hoặc ngang qua cựa dưới trên có thường.

Lên thì thấy nó đá ngang,

Dưới thì đá bợ, lại mằn hầu chơi.

Ngón giữa vảy đóng an nơi,

Tướng lân là hiệu đời đời nghe danh.

Ngư-khẩu có vảy giăng ngang,

Vảy xa ra khỏi thấy càng hay quăng.

Gà người dày lớn mấy phân,

Vấn xương kiếm vảy chớ cân chớ nài.

Dị hình vảy đóng cũng tài,

Thấy nó dị diện nào ai biết gì.

Vảy nào vấn ra một khi,

Hình như nhơn tự càng thi diệu tài.

Trên cựa thắt lằn rõ ràng,

Hoặc nó đâm mắt cho tàng mà phân.

Ngang cựa dưới cựa ân cần,

Thắc lắm đâm mắt mười phần nào e.

Vảy hình kim đóng ngang bìa,

Vấn ngang là vảy chữ đề bình-an,

Vảy nào mà thấy đóng ngang,

Ðá nhằm một cái nửa bên ngặt nghèo.

Ðôi vảy chen lại tự-nhơn,

Chỉ ra áp-khẩu nên thân đâu là.

Ngón nội thấy vảy chỉ ra,

Gà ấy ăn độ phải ghi tấc lòng.

Kỳ 6, số 37, phát hành ngày 8-5-1902

Vảy độ chỉ ra rành rành,

Gà đà ăn độ lời đành bảo cho.

Vảy độ mấy vảy chẻ ra,

Ðà ăn mấy độ coi qua thì tường.

Dạy rằng cho độ mọi đường.

Tương sanh tương khắc có tường hay chưa ?

Từ nay cho những ngàn xưa,

Phong trần đã lắm bây giờ mới tinh.

Tùy cơ ứng biến rất xinh,

Ăn vì dày trí, phải gìn lời khuyên.

Hoài chi tấm bạc đồng tiền,

Trông gặp thì đá thua phiền đặng sao !

Lựa cho hiệp cách con nào,

Ðá thì thấy thắng phép trao chẳng lầm.

Dám khuyên những khách hùng tâm,

Của này xin nhớ giá cầm là chơi.

Ô thủy, tía hoả, tánh trời.

Nhạn kim, xám mộc, thổ thì huỳnh kê.

Gà ó thổ vượng tư bề,

Cùng vàng đồng mạng chớ hề nghi nan.

Gà bông, gà chuối, xám vàng,

Gà lau, gà nổ, cùng chàng cú kê,

Cứ theo sắc chánh mà suy,

Ngũ hành ngũ sắc kể gì dáng lông.

Xám son, cú chuối, nổ bông,

Thiệt là sắc dáng phải ghi tỏ tường.

Giả như xám trổ mã vàng,

Thiệt là sắc mộc màu vàng kể chi.

Bông nổ mã ô đen sì,

Màu thời chẳng kể, kể thì thủy ô.

Như vàng mã chuối trỏ vô,

Kể là sắc thổ chuối dò làm chi.

Gà tía trổ lau một khi,

Ðành rồi hoả mạng ai thì kể lau.

Gà nhạn trổ đen, vàng màu,

Chánh sắc kim thiệt ai hầu vàng, đen.

Sắc dáng cũng ăn sắc toàn,

Tương-sanh tương-khắc cậy liền can chi.

Hoặc là thủy vượng hoả suy,

Cũng hay tương-khắc tứ thì chẳng không.

Mùa xuân mộc thạnh khôn cùng.

Gà nhạn tuyết ấy khắc đồng mấy cho.

Mùa hè khí vận lửa lò,

Gà tía hoả mạng ấn phu với hè.

Qua thu âm khí nặng nề,

Ô gà thủy cũng sánh kề kém đâu.

Ðông lai thủy thuộc ruộng sâu,

Ðừng cho gà xám mạng sanh phải mùa.

Ó vàng hai sắc một pho,

Thổ vượng tứ quí bốn mùa có vay.

Cho hay thổ mẫu sanh ra,

Kim nhờ thổ mạch mới là có kim.

Kim lại sanh thủy chớ hiềm,

Thủy thời sanh mộc, hoả hiềm mộc sanh.

Ấy là ngũ hành tương sanh,

Lại dạy tương khắc sẵn dành đinh ninh.

Ðã hay thua đã tương-sanh,

Nhưng mà tương khắc tắc tình lạ thay.

Ô-thủy ăn tía hoả ngay,

Tía ăn kim-nhạn ngày rày chẳng lâu.

Nhạn ăn xám-mộc rất mau,

Xám mộc ăn thổ-ó lau, với vàng.

Nó hay phản khắc ghe đàng,

Ô thì ăn tía, vàng thường ăn ô.

Nhựt-thần cho đặng cũng phò,

Can chi hiệp nó chẳng lo nỗi gì.

Giáp-Ất là mộc vân vi,

Bính-Đinh ngày ấy hoả thì chẳng sai.

Canh-Tân vốn thiệt kim hoài,

Nhâm-Quí thuộc thủy mà ai chẳng tường.

Mậu-Kỷ thổ vượng trung ương,

Tương sanh đặng nó, nó càng thêm xuê.

Ngày thời lấy thế mà suy,

Kim, mộc, thủy, hoả, thổ thì phải coi.

Ngày sanh hay khắc mấy ngôi,

Phải phân cho rõ hẳn hòi mà toan.

Giả như ngày thuộc kim toàn,

Vàng tía thì hơn, xám nhạn thì thua. (Ô nhạn thì hơn, vàng tía thì thua)

Ngày nào thuộc mộc tía no,

Xám nhạn cũng thắng, ó đùa chạy ngay. (Xám lau cũng thắng, ó đùa chạy ngay)

Ngày mà thuộc thủy nhẫn ngày,

Ó, ô đều thắng, vàng rày lại thua. (Xám, ô đều thắng, vàng rày lại thua)

Ngày nào thuộc hỏa ngày mô,

Ó, vàng đều thắng, tía đồ vô công.

Ngày mà thuộc thổ vun trồng,

Ó, nhạn đều thắng, ô thua chạy dài.

Phép xem nầy nữa chẳng sai,

Xám mộc, ó thổ, ô nhai thủy trầm.

Thổ, kim, hoả, vận tam lâm,

Nhựt thần là thủy khắc thâm ba chàng.

Xám mộc, nhạn kim rõ ràng,

Ngày lại gặp thủy phải toan trở về. (Ngày lại gặp hỏa phải toan trở về)

Ô thuộc mạng thủy thường lề,

Nhạn tài cho lắm mựa hề giao phong.

Ó thổ gặp ngày mộc xung,

Nhựt thần thọ khắc thế phòng bị thương.

Tía thuộc mạng hoả là thường,

Ô thủy gặp hoả phải nhường anh va.

Ô là mạng thuộc thủy hòa,

Xám mộc dầu gặp nẻo xa cũng về.

Ó, vàng đều thổ một bề,

Gặp đặng ngày hỏa ăn dè thủy ô.

Tuổi già đã tám mươi lăm,

Dọn đặng một cuốn cầm bằng ngàn cân:

Chỉ bày đã hết xa gần,

Nghề chơi song cũng tinh thần vậy vay,

Ai dầu coi đến sách này,

Trăm người xin thấy công dày mà thương.

Phong lưu tài trí cao cường,

Ngàn năm xem xét thì tường tài năng.

Chữ rằng đỗ vật tư nhơn

Tiên giác, hậu giác ân cần một chương.

CHUNG

Giao-hòa, lão-nhiêu Nguyễn-Phụng-Lãm

Ghi chú

Người đọc cần nắm được nghĩa của một số từ như:

  • In nhau: giống nhau.
  • Nhằm: nhằm nhò (không ăn thua gì).
  • Chơn hoặc chưn: chân (cẳng).
  • Nhơn: nhân.
  • Tứ thì: tứ thời.
  • CHUNG: hết bài.

Thời gian phát hành

Bản Kinh Kê diễn nghĩa được chia là đăng làm 6 kỳ trên tờ báo Nông-cổ mín-đàm. Từ kỳ số 30 (phát hành ngày 20/03/1902) đến kỳ số 37 (phát hành ngày 08/05/1902). Trong đó có 2 kỳ là số 32 và 33 thì không có đăng.

Bản đăng trên vốn đã được đối chiếu với bản trong sách của Huỳnh Ngọc Trảng (nhà văn Sơn Nam). Tựa đề là “Thú đá gà : kê kinh, kê kinh diễn nghĩa, cách nuôi và xem gà đá”. Tuy nhiên do là nhà văn người nam bộ mà ông đã có chỉnh sửa một số lỗi ngữ pháp nhỏ. Tránh làm khó hiểu cho chính người Nam Bộ khi đọc.

Tác giả Kinh Kê diễn nghĩa

Theo lời bài thơ “Giao-hòa, lão-nhiêu Nguyễn-Phụng-Lãm” thì tác giả của bài thơ này chính là ông Nguyễn Phụng Lãm. Theo như giới thiệu thì đã hơn 80 tuổi. Có nhiều nguồn thông tin cho rằng Kinh Kê gốc là tiếng Hán hoặc tiếng Hán-Nôm. Cho nên sẽ có sự khó hiểu với các từ ngữ và văn phong cổ. Cho nên ông Lãm đã chuyển sang thể thơ cho dễ ghi nhớ.

Nguồn gốc Kinh Kê

Theo như lời của bài thơ “Trời xuân nương ngọn đèn hoa, Thừa nhân xem thấy sách gà Phạm Công” (phần mở đầu) cho nên có thể nói Kê Kinh có nguồn gốc từ Phạm Công. Chưa rõ thân thế.

Ngoài ra cũng có người cho rằng tác giả Kê kinh là Tả quân Lê Văn Duyệt (1763 – 1832). Ông là một vị quan của chúa Nguyễn Ánh. Theo sử sách ghi lại, Đức Tả quân là người ham mê đá gà. Tuy nhiên lại không có bất kỳ tư liệu nào cho thấy ông là tác giả của Kê kinh.

Mặc dù vẫn chưa có thông tin nào về việc nguồn gốc của Kinh Kê gà chọi là từ ai. Tuy nhiên những ứng dụng của Kinh Kê gà chọi – Kinh Kê diễn nghĩa là được áp dụng rộng rãi. Những điều được chia sẻ trong sách đến nay vẫn vô cùng chính xác. Anh em nên lưu bài diễn nghĩa này lại. Mỗi khi rảnh rỗi thì nên đọc và nghiên cứu lại. Sau đó áp dụng vào ở những giai đoạn cần. Nhất là đem gà đi đá và chọn giống sẽ thấy sự chính xác của sách này.

Nguồn: Google